Cụ Nguyễn Vấn ( 1900 - 1992 ) |
I
- Thời niên thiếu và trai trẻ:
Thầy tôi sinh năm 1900 ở xã Diễn Hạnh, Diễn Châu, Nghệ An. Những lúc
rảnh rỗi ông thường kể lại chuyện xưa về cuộc đời mình cho tôi nghe. Sở dĩ như
vậy vì tôi hay hỏi chuyện cũ của cụ. Tôi nhớ rất lâu những chuyện ấy bởi trí tò
mò và muốn sưu tầm những câu chuyện về gia đình mình. So với mấy anh em sinh
ra, tôi được thưa chuyện với thầy tôi nhiều nhất.
Thầy tôi kể: Ông Nội tôi là Cụ Nguyễn Thê
có 3 đời vợ. Bà thứ nhất không có con,
cụ lấy bà thứ hai sinh được người con trai là ông Nguyễn Tơn ( bố ông Đàn, Ông
Lĩnh ) Sau đó cụ lấy bà thứ 3 là Trình Thị Độ. Bà Độ sinh ra thầy tôi và chị
gái là Nguyễn Thị Thức ( mẹ ông Căn, ông Do ). Gia đình ông nội tôi tuy không
giàu có gì nhưng cũng thuộc loại gia thế trong làng nên mới được gọi là ông
Trùm Nội. Lớn lên chừng 8 tuổi ông nội
cho thầy tôi học chữ nho, chữ nôm do nhà nho Hồ Tiếu dạy. Nhà nho Hồ Tiếu người
làng Quỳnh Đôi phủ Quỳnh Lưu vào dạy học ở làng tôi, làm rể làng tôi và sinh ra
ông Hồ Tuân. Cụ luôn động viên thầy tôi cố gắng học và chăm làm việc. Cụ Hồ
Tiếu là người bà con họ hàng gần với cụ Hồ Tùng Mậu và hơn cụ Hồ Tùng Mậu
mươi tuổi vì cùng quê, cùng họ Hồ. Ông Nội tôi cũng động viên cứ chăm làm chăm
học, đến mùa cụ sẽ thưởng cho mỗi bữa một bát cơm úp ( hai bát cơm úp làm một
như bát cơm cúng, ở quê tôi vẫn làm như vậy ). Điều đó chứng tỏ nhà ông nội
cũng nghèo, không đủ ăn nên phần thưởng cũng chỉ là bát cơm đầy mà phải cố gắng
học tâp, làm việc thì đến mùa mới có. Phận làm lẽ nên sau khi có con bà nội tôi
được ông nội làm cho một cái nhà tranh nho nhỏ ở góc vườn cho 3 mẹ con ở riêng.
Thầy tôi là người rất sáng dạ, học thông viết thạo, chữ rất đẹp nên ai cũng
khen. Mười sáu tuổi thầy tôi mới học chữ quốc ngữ kết hợp học cả chữ nho, chữ
nôm. Chữ viết khuôn thước, không viết láu viết ẩu nên thầy giáo thích lắm. Tuy
tuổi trẻ nhưng trong làng ai có việc bán ruộng bán nhà, mua bán trâu bò hoặc
tài sản gì quý giá đều mời thầy tôi viết văn khế giao ước. Thời đó ai biết chữ,
làm được văn tự như thầy tôi là hiếm lắm. Mười chín tuổi gia đình cưới vợ ( là
mẹ tôi ). Vốn là con quan lục lộ, bà cũng xinh gái, kém thầy tôi một tuổi, (quê
ở làng Nhân Trai xã Diễn Xuân). Tuy vậy do ông ngoại tôi mất sớm lúc bà ngoại
mới hơn hai mươi tuổi, một mình ở vậy nuôi 2 con gái nhỏ dại nên mẹ tôi cũng
vất và từ khi còn bé, do đó khi về làm dâu, thầy mẹ tôi không nhờ vả bên nội, bên ngoại được gì
nhiều. Vì ruộng đất ít, quanh năm làm đủ thứ nghề như kéo sợi, làm bánh đúc,
trồng cây con, rau quả trong vườn rồi làm thợ nề, thợ mộc mới đủ sống.
Năm 20 tuổi thầy mẹ tôi sinh con đầu lòng là ông Nguyễn Thái, năm 25 tuổi sinh con gái là bà Nguyễn
Thị Danh ( bà Dương ), Năm 32 tuổi sinh con thứ 3 là ông Nguyễn Bình. Con cái
mỗi ngày một đông nên ngoài làm ruộng, kéo sợi, làm bánh đúc còn đi buôn bông,
buôn hành từ Cầu Giát, Chợ Dàn về bán ở chợ Chùa, chợ Sở kiếm chút lời mua mớ
khoai lon gạo. Những công việc đó do thầy tôi đảm trách. Cuộc đời vất vả từ bé
đến lớn làm lụng nuôi con khó nhọc vô cùng.
II
- Khi trưởng thành:
Năm 1930- 1931 phong trào Xô viết
Nghệ Tĩnh đã làm cho hệ thống chính quyền phong kiến ở các làng tan rã, sau đó
phong trào bị đàn áp nhất là những làng không có lý trưởng đứng đầu. Để tránh
họa cho dân, các cụ trong làng đã họp và cử thầy tôi và một người khác nữa để
quan huyện chọn làm lý trưởng. Lý do các cụ đưa ra là chọn người hiền từ, có
học, đức độ, nho nhã, ăn nói lưu loát ai cũng nể phục thì dân mới được nhờ.
Xuống phủ, quan phủ bắt hai người chép một đoạn của tờ báo bằng chữ quốc ngữ và
chữ nôm, chẳng biết để làm gì? Sau khi nộp bài quan huyện xem và chọn thầy tôi.
Thầy tôi xin từ chối vì hoàn cảnh khó khăn, gia đình nghèo, đông con sợ không
làm được để các quan quở trách. Nhưng quan phủ không chấp nhận, bị quát nạt còn
bị đánh mấy roi. Tình thế không thể thoái thác, vậy là thầy tôi buộc phải làm
lý trưởng từ đó…Chuyện này ông Trương Kỳ nguyên Phó Giám Đốc sở lao động Hà Nội
vẫn thường nói chuyện với tôi. Ông Trương Kỳ là người Thừa Sủng cùng sinh hoạt
chi bộ với thầy tôi cũng kể lại như vậy. Trong cả thời gian làm việc, thu thuế
trong thôn vẫn thực hiện như bình thường. các nhà có ruộng tự giác nộp, mùa nào
bão lụt mất mùa thì được giảm thuế, nhà nào khó khăn thì tuần đinh đôn đốc, chỉ
nhắc nhở không gay gắt quát nạt. Khó nhất là thu sưu ( một loại thuế thân ).
Những người nghèo không có tiền thầy tôi cũng cho qua và thuyết phục quan phủ
rằng người ta nghèo không có miếng ăn nên phải đi ăn xin, tha phương cầu thực,
đi miền núi Tương Dương, Nghia Đàn, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Thái Hòa để mót ngô,
chặt củi. Mỗi bông kẹ cũng được dăm ba hạt, mỗi ngày chăm chỉ cũng được vài ống
ngô cho cả nhà sống qua ngày thì tha cho người ta. Quan phủ im lặng và không
nhắc tới nữa…
Năm 1933 ông Bùi Tự Cường là học sinh trường phủ duy nhất của làng bị
bắt vì tội lôi kéo học trò nghỉ học ( bãi khóa ). Thầy tôi và cố Bân đại diện
gia đình xuống phủ xin tha cho về với lý do ông ấy còn trẻ tuổi ( khoảng 15- 16
tuổi ), suy nghĩ bồng bột. Cố Bân cũng hứa sẽ bảo ban con học tập ngoan ngoãn.
Vậy là ông Cường được tha. Xóm làng tuy nghèo nhưng bình yên. Cứ một tuần thầy tôi lại mặc áo the khăn xếp cắp ô đi bộ
7 cây số xuống phủ trình diện một lần để cho quan và bang tá biết rằng mọi việc
vẫn trôi chảy. Do ăn nói thuyết phục, có tình cảm nên quan chức và nhân dân,
nhất là các cụ cao tuổi trong làng nể trọng.
Mọi việc đều êm xuôi nên quan phủ phần nào yên tâm.
Năm 1935 mẹ tôi sinh con gái đặt tên là
Nguyễn Thị Hanh.
Năm 1937 sinh thêm một trai thiếu cân,
còi cọc nên đặt tên là Nguyễn Nhỏ
Năm 1939 cưới vợ cho anh Thái, cũng năm
đó chị Danh về nhà chồng. Chồng là ông Phạm Dương người cùng làng. Chị tôi lấy
chồng lúc 14 tuổi.
Năm 1940 tôi ra đời, nhưng cũng năm sau đó gia đình tôi bị chết 2 người
con là chị Hanh và anh Nhỏ vì bị ôn dịch ( bệnh đậu mùa ). Năm đó nhiều gia
đình trong làng có con bị chết, nhà một người nhà hai người do dịch bệnh hoành
hành không có thuốc chữa. Hai cái tang trong một năm cộng với kinh tế quá khó
khăn làm cho thầy mẹ tôi suy sụp và cũng không tha thiết điều gì để mong chờ,
nên thầy tôi xin nghỉ. Dân làng thương tâm cử lý trưởng khác là ông Tăng Doãn.
Trước khi nghỉ nhà nước phong kiến tỉnh phong cho cụ hàm Cửu Phẩm Văn Giai. Hàm
này chỉ cấp cho những người có học thức, đức độ, nhân hậu, nho nhã được mọi
người yêu mến. Khác với hàm Cửu Phẩm Bá Hộ để cấp cho các thành phần khác.
Trở về thường dân với bao nỗi lo toan,
tiếp tục cày cấy, làm vườn, nhưng ruộng đất ít nên phải buôn bán nhỏ vì không
có vốn, lấy công làm lãi tý chút để nuôi sống cho cả nhà trong cảnh cơ hàn. Nhà
cửa vẫn ngôi nhà mái rạ 4 gian ở bìa làng, tường nhà chỗ xây bằng sò viên chỗ
thì vách cót, mấy năm sau lại phải thưng cho anh cả một gian làm buồng riêng và
một cái nhà bếp lợp tranh, tường bằng
vách tre trát bùn trộn rơm.
III
- Giác ngộ Cách mạng:
Từ năm 1936 Mặt trận Bình Dân bên Pháp thắng cử có chủ trương thay đổi
một số chính sách như thả tù chính trị, cải cách thuế khóa và thay thế người
cai trị ở các thuộc địa và bản địa, một số tù nhân chính trị ở VN cũng được
tha. Sau đó ở địa phương cũng nghe đến việc hình thành tổ chức Mặt Trận, hai
năm sau mới rõ ràng là Mặt Trận Phản Đế.
1939 ra đời tổ chức Nông Hội, tuy không công khai, thầy tôi tham gia hội
này từ năm 1942. Sau này mới biết là Nông Hội Đỏ.
1943 mẹ tôi sinh thêm con trai út, đặt tên là Nguyễn Thụ. Đến khi đi học
cấp I đổi thành Nguyễn Minh Châu.
Cách mạng tháng tám 1945 nghe trống dục liên hồi cả làng mít tinh cướp
chính quyền, Nông Hội Đỏ là nòng cốt của lực lượng ấy. Thầy tôi cũng là thành
viên tích cực của những cuộc biểu tình mít tinh kéo nhau xuống phủ cướp chính
quyền. Chính quyền cũ tan rã.
Cách mạng tháng tám thành công, nhà nhà đều phấn khởi, chính quyền mới
tỉnh, huyện được thành lập. Xã cũng vậy. Sau khi thành lập xã Hạnh Viên gồm
làng Hiệu Thượng, làng Tú Mỹ và làng
Nghi Lộc, rồi bàu Ủy ban kháng chiến Hành chính xã Hạnh Viên, thầy tôi trúng cử
chức Chủ Tịch.
Công việc ban đầu của UBKCHC xã Hạnh Viên là ổn định xã hội, ổn định đời
sống nhân dân. Thành lập các tổ chức dân quân, du kích, đoàn thanh niên cứu
quốc, hội phụ nữ, đội thiếu nhi. Già trẻ lão ấu đều có đoàn thể của mình, sinh
hoạt rất sôi nổi. Công tác sản xuất nông nghiệp, trồng rau màu được đẩy mạnh để
chống đói, nhất là xóa mù chữ cho nhiều người, các lớp học bình dân học vụ được
mở ra ở từng thôn xóm. Để chuẩn bị cho cuộc bầu cử Quốc Hội khóa đầu tiên ngày
6 tháng 1 năm 1946, toàn dân nô nức học chữ quốc ngữ. Phong trào bình dân học
vụ lên cao, Thanh niên biết chữ trong làng đều hăng hái dạy học. Để cuộc bàu cử
quốc hội khóa I đạt kết quả. Dân quân du kích đội ngũ chỉnh tề, tập đi đều
bước, tập đứng nghiêm, quay trước, quay sau, quay trái , quay phải khi có khẩu
lệnh của chỉ huy. Mỗi người trang bị 1 cây gậy tre dài 1,6m, có người có mũ ca
lô, một mũi giáo sáng lòa cắm chặt vào đầu gậy. Tuy quần nâu áo vá, có người
chỉ có quần đùi, chân đất, ai mặc quần dài thì dùng dây thắt túm dưới gấu quần
gọi là quần gôn. Ai đứng vào hàng ngũ ấy đều thấy tự hào và trông oai lắm. Khi
người chỉ huy hô: Việt Minh thì mọi
người đồng thanh hô: Vạn Tuế (nghĩa
là Việt Nam
muôn năm). Khi người chỉ huy hô: Dô Ta
– tất cả hô vang: Hè (nghĩa là Đoàn
kết) Mỗi khẩu hiệu hô 3 lần. Tiếng hô vang vọng tràn ra xóm làng làm lòng người
phấn chấn, quên đi cái đói cái rét đang hiện hữu. Những năm đầu sau C/m tháng
tám 1945 là như vậy, vui lắm, phấn khởi lắm. Nhiều hôm dân quân du kích ngủ tập
trung qua đêm tại đình làng hoặc nhà ai đó có sẵn ổ rơm ổ rạ ấm áp. Sáng dậy
sớm chạy quanh làng, vừa chạy vừa hô khẩu hiệu Việt Minh – Vạn Tuế, Đô Ta – Hè
rất vui. Khí thế cách mạng ngày càng lên cao.
Tham gia hoạt động trong Nông Hội Đỏ và Mặt trận Việt Minh suốt từ năm
1942 đến năm 1948 Thầy tôi được kết nạp vào Đảng. Tuy lúc ấy Đảng đang hoạt
động bí mật, nhưng hàng loạt đảng viên mới được kết nạp. Anh Thái và Chị Danh
tôi cũng được vào Đảng thời gian đó. Đảng trực tiếp lãnh đao phong trào kháng
chiến kiến quốc ở địa phương thông qua tổ chức Nông Hội và Mặt Trận.
Khoảng năm 1949 huyện nhập 4 xã Viên, Hoa, Hạnh, Quảng thành xã Trung
Diễn, thầy tôi phu trách thuế và bình dân học vụ. Sau vài năm lại nhập mấy xã
nữa thành xã Quảng Châu gồm 31 thôn tất cả. Thầy tôi vẫn làm 2 nhiệm vụ trên
trong phạm vi 31 thôn.
Mọi nhiệm vụ được giao thầy tôi đều hoàn thành, xứng đáng là một Đảng
viên tiêu biểu của Đảng, không có điều tiếng gì.
Do ruộng đất ít, nhà nghèo nên năm 1948 gia đình tôi nhận 3 sào ruộng rẽ
của ông Trùm Dương, nhà ở xóm Cao Vương ( xóm Chùa ). Mỗi khi gặt lúa phải mời
người nhà ông này giám sát xem gặt được bao nhiêu gồi, bao nhiêu lượm, bao
nhiêu gánh, trừ đi lượng lúa làm giống 5% còn lại chia đôi và gia đình tôi phải
gánh đến tận nhà trả cho họ. Tất nhiên
thuế má nhà tôi phải nộp. Có một lần tuy còn nhỏ tôi cũng cùng gánh thóc đến
nhà nộp tô cho chủ ruộng.
Năm 1953 nhà nước chủ trương giảm
tô 25% nghĩa là gặt được mười phần chia làm 4 , ¼ đó của tá điền cày rẽ được
hưởng, còn lại ¾ chia đôi, người có ruộng một phần, tá điền một phần. Đến cải
cách ruộng đất 1955 nhà tôi được chia luôn 3 sào ruộng ấy. Được cắm thẻ nhận
ruộng ai cũng vui. Không khí trong thôn rộn rã tiếng cười…
Cũng năm cải cách ruộng đất, thầy tôi bị xóa tên khỏi Đảng vì có người
tố cáo theo dõi bắt ông Bùi Tự Cường, nhưng năm 1943 ấy thầy tôi đã nghỉ 2 năm
trước. Với lại ban đêm do đói kém nên kẻ trộm trong làng cũng như các làng khác
mò vào làng mình rình rập bắt trộm gà, trộm rau màu, tuần đinh đi tuần chống
trộm cho dân lại nghĩ có kẻ rình mò để bắt cộng sản. Lúc đó người ta tố sai
chẳng ai có thể thanh minh được. Thôi thì cây ngay chẳng sợ chết đứng, thầy tôi
chỉ tin có vậy. Nhưng chỉ mấy tháng sau lại được phục hồi trở lại do bị tố oan. Thầy tôi thở
phào nhẹ nhõm và nói rằng đúng là trời có mắt. Cũng may tuy làm lý trưởng nhưng
thật chẳng có gì, nhà tranh vách cót, thiếu đất, cày thuê làm tá điền cho địa
chủ, nhưng lúc đó thầy tôi cũng hoang mang lắm. Về sau quy thành phần được xếp
vào trung nông lớp dưới bị bóc lột. Anh Thái tôi ở riêng, có 2 mảnh vườn, không có trâu bò nên
xếp vào thành phần bần nông.
Kết thúc 9 năm kháng chiến chống Pháp thầy tôi được nhận huy hiệu kỷ
niệm kháng chiến, sau này được nhận huy chương kháng chiến hạng nhất.
Khi thành lập HTX nông nghiệp, thầy tôi được bàu vào ban quản trị phụ
trách kế toán và tham gia một số công tác khác ở địa phương. Cho đến năm 1970
thầy tôi mới nghỉ hoàn toàn, không tham gia công tác gì nữa, ở nhà trồng trọt
chăn nuôi, làm thợ nề, thợ mộc giúp bà con xây dựng nhà cửa ( lúc đó cụ đã 70
tuổi ).
Năm 1987 mẹ tôi qua đời, thọ 87 tuổi.
Năm 1992 thầy tôi qua đời, thọ 93 tuổi.
Các con đến tuổi trưởng thành xung phong vào lính đánh giặc như ông
Thái, ông Bình, ông Châu đều trở thành Đảng viên của Đảng, Được phân công những
công việc trọng yếu phù hợp với trình độ văn hóa mỗi người. Còn tôi, sau khi
học xong khóa trung cấp Thiết kế kiến trúc 3 năm, năm 1962 tôi ra trường được
phân công về viện Thiết Kế Dân Dụng Bộ Kiến Trúc, được xếp vào tổ Thiết kế
những công trình đặc biệt cho Trung Ương và Chính Phủ. Làm bí thư chi đoàn và
là ủy viên BCH Đoàn Viện Thiết kế. Năm 1965 được kết nạp vào Đảng. Năm 1966
được cử học đại học Xây Dựng. Năm 1971
tôi là một trong 2 học sinh tốt nghiệp loại giỏi của khóa học ấy. Năm 1973 được
điều động về công trường 75808 trực tiếp thi công Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Khi kết thúc công trình tôi về lại cơ quan cũ làm KS thiết kế kết cấu Viện
Thiết Kế Dân Dụng BXD…
Năm 1980 tôi được Bộ trưởng Đồng Sĩ Nguyên bổ nhiệm Phó Giám đốc xí
nghiệp và biệt phái về xây dựng nhà máy điện Phả Lại, sau đó làm Giám Đốc Trung
tâm KTKT xây dựng. Năm 1988 được cử đi I Raq 2 năm, năm 1991 về nước làm Trưởng
phòng kỹ thuật và quản lý dự án của VINACONEX - 6 cho đến lúc nghỉ hưu năm
2003.
Nghĩ về người cha, tôi thầm biết ơn cụ đã để lại cho chúng tôi nếp sống,
nếp nghĩ của những nhà nho thuở trước, luôn luôn tôn trọng sự thật, lấy đạo đức
của người chân chính để học tập rèn luyện. Chúng tôi thật tự hào và không hổ
thẹn với người cha thân yêu của mình…
Hà Nội ngày 22 - 4 – 2016
Nhà thơ Nguyễn Quang Huệ