Bốn người cùng phòng

 

(Hồi ký của Nguyễn Quang Huệ)

 


        Tôi ở cùng phòng với ba người. Ba kỹ sư xây dựng: Tôi, ông Nguyễn Văn Tuấn và ông

Nguyễn Văn Phát.

Chúng tôi sang Iraq với chức danh Đốc công. Trong phòng còn có kiến trúc sư Phạm Vũ Mĩ sang đây với chức danh họa viên.

Ông Tuấn, ông Phát cùng ở Liên hiệp Tấm lớn Xuân Hòa nên làm bạn với nhau. Tôi, ông Mĩ đều dân Thiết kế nên trong sinh hoạt, suy nghĩ chiều tâm đầu ý hợp. thế chúng tôi chia thành hai bếp, tự bảo ban nhau nấu nướng vì hợp gu hợp tính. Hàng ngày tôi nấu cơm buổi chiều, ông Mĩ nấu cơm buổi sáng. Thực phẩm chủ yếu là gà quá lứa, đã đẻ hết trứng, do anh em cấp dưỡng của ta buôn từ chợ về. Rau cỏ, trứng hành, sữa đường, mua ở căng tin.

Bếp nấu là dây may so của Nga, người nào cũng mang theo vài ba cái. Đế bếp bằng đất nung chuyên dùng với dây may so. Nồi niêu mua sắm tại thị trấn Sê Cát, một huyện lỵ, cách khu ở mười cây số. Ăn không dùng đũa mà dùng thìa. Cuộc sống tạm bợ lâu thành quen. Tháng đầu mới sang ăn tập thể do người Xu Đăng nấu không hợp khẩu vị nên hầu hết tự tổ chức nấu ăn.

Mỗi tháng nhà nước Iraq cấp cho 24 Đina tiền ăn kể từ khi nhập cảnh, nên ăn uống đường sữa thoải mái không bao giờ thiếu.

Qua một năm lao động vất vả, mỗi người dành dụm đổi được mấy trăm Đô. Công ty xuất khẩu lao động Vinaconex lại cho đăng ký mua xe máy của Nhật Bản. Tôi đăng mua một chiếc với giá 580 Đô la. Ông Tuấn mua một chiếc 320 Đô la. Ông  mua một xe mới với giá 1.000 Đô la. Riêng ông Phát không mua vì con gái ông là Thanh Hương, là biên tập viên Đài truyền hình VN gửi thư sang khuyên bố giữ gìn sức khỏe, để tiền bồi dưỡng bản thân chờ ngày về. Đừng lo gì cho mẹ con con ở nhà.

Sau khi Công ty Vinaconex chiếu video cảnh các bà vợ ở nhà nhận xe, mặt mày các phu nhân rạng rỡ, vui vẻ dắt xe ra khỏi công tơ nơ, các ông chồng vẫn chưa biết tường tận chiếc xe của mình.

Vợ ông Tuấn viết thư sang nói nặng lời rằng:

-  Anh mua xe thì mua trong nhà, đừng mua xe ngoài bãi rác. Nhục lắm vì vừa xấu, vừa cũ nát, lại hôi hám, toàn mùi nước mắm. Vành bánh, phụ tùng đều han rỉ. Sao không mua cái nhiều tiền hơn như người ta?

Ông Tuấn bực mình vì Vinaconex mua cho ông cái xe hủi lậu. Khốn nỗi ông ấy chỉ đặt loại 320 Đô la vì trước đó đã mua quần nhung, áo nỉ, khăn lông cho vợ và mấy đứa con nên chỉ mua được xe cũ đời 78, loại sừng nghé.

Vợ ông Mĩ gửi thư sang báo tin:

-   Anh ơi, nhà ta đã mua được xe Hon Đa đời 82, màu vàng, đèn vuông, nhưng phải vay của cô 300 Đô mới đủ.

Ông Mĩ cứ băn khoăn không hiểu màu vàng như thế nào? Có đẹp không? Ông Tuấn đang sẵn bực mình về bức thư của vợ bèn đáp một câu không ai ngờ tới:

-   Màu vàng là màu c.ứ.t, có gì phải hỏi…

Cả mấy anh em trố mắt thất vọng… sau câu trả lời không mấy lịch sự làm ai cũng thấy nặng mùi, lặng người vì khó chấp nhận.

Một lúc sau, ông Mĩ hỏi tôi:

-   Bà ấy viết thư thế nào? Tôi trả lời ậm ừ nhát một:


 -   Xe cũ, đời 81, năm mươi phân khối, màu xu hào, đồng hồ “Kim vàng giọt lệ”.

Ông Mi kêu to:

-   Ông Huệ trúng độc đắc rồi. Kim vàng giọt lệ kia mà, bao người mơ ước đấy. Loại này hiện nay ở Hà Nội được giá lắm. Dắt xe ra khỏi công tơ người hỏi mua ngay. Nhiều người săn lùng. Bây giờ đem bán ngang giá với xe tôi đấy. Ông Huệ sướng thật, tự nhiên lộc vào nhà, được lãi mấy trăm Đô.

-  Tôi chẳng hiểu về xe lắm chưa bao giờ có, nên chưa quan tâm.

Một số anh em thuộc Vụ Kỹ thuật, Văn phòng Bộ cùng đi một chuyến bay, không đăng ký mua với lý do không biết đi xe máy. Tới khi về nước không tiền mua xăng dầu, vả lại khi đi đường, lớ ngớ đâm vào người ta thì bán xe cũng không đền nổi. Thôi chả dại!

Tôi nói với các anh ấy: Cứ mua đi. Có xe sẽ biết đi xe, xe sẽ tiền mua xăng. Trái lại nếu mua không đi thì bán, cũng lãi được vài trăm Đô đấy. Nhưng các anh ấy bảo muộn rồi. Chỉ còn mấy người chắc Công ty Vinaconex chẳng thèm mua hộ…

Sau khi vợ báo tin phải vay bà cô 300 Đô la, ông Mĩ nghĩ ngay đến trách nhiệm của mình là làm gì để lúc về có tiền trả nợ!…

Ông là kiến trúc sư, lại có tài vẽ truyền thần. Hàng ngày cứ hết giờ làm việc buổi chiều, về đến nhà ông ấy ngồi vào bàn ngắm nghía hết ảnh này đến ảnh khác. như thói quen nghề nghiệp.

Lâu nay ông vẫn vẽ nhưng bây giờ trở đi ông sẽ phải cố gắng hơn nữa, may chăng mới thoát nợ nần. Ba trăm Đô lớn lắm chứ.

Khách hàng của ông Mĩ là những người lao động Xu Đăng, Cairô, Bangladesh. Họ rất thích những bức ảnh ông vẽ. Tuy nhiên không phải bức ảnh nào khách hàng cũng hài lòng. Có ảnh vẽ đi vẽ lại mất cả tuần mà khách chê không giống, không muốn lấy ảnh, ông buồn bực cùng. Mỗi ảnh ông lấy năm Đina nhưng khách không nhận hàng mất toi thời gian lao động cật lực cả tuần. Kiếm được đồng tiền đâu dễ. Ông vẫn ca cẩm như vậy.

Một hôm, sau bữa cơm chiều, ông Mĩ tâm sự thật lòng:

-   Ông Huệ thế sướng thật, hết giờ làm việc cứ vi vu, vui chơi thoải mái, chẳng lo nghĩ gì. Còn tôi, cày cuốc cả đêm lẫn ngày mà chẳng đâu vào đâu!

   Ông Mĩ lại than thở rằng, mình làm tại văn phòng công trường cùng với Na Sơ, chưa bao giờ hắn thưởng cho mình một giờ thêm giờ nào. Trái lại thỉnh thoảng tôi vẫn thấy hắn thưởng cho ông? Ông quyết không? Mình không ngờ trước mặt là một quả núi Phượng Hoàng lớn mà mình không nhận biết. Phục tài. Phục tài…

Tôi trả lời: bản hiệu quả công việc. Ông ngồi văn phòng, máy sưởi mùa đông, máy lạnh mùa hè, có khổ như những người ngoài công trường, cực thế nào, ông đâu biết. Ông sang đây với chức danh họa viên, Na chỉ ông vẽ cái gì thì vẽ cái đó, vẽ xong ngồi chơi, thế là hơn tôi rồi. Ông chỉ vất vả khi đã về nhà với những bức ảnh truyền thần, từ năm giờ chiều đến mười một giờ đêm mới nghỉ.

Quả thật, muốn truyền thần một bức ảnh phải tập trung trí não cao độ. Đưa được khuôn hình từ tấm ảnh bé tý ra khổ giấy A4 rất vất vả. Ăn không ngon, ngủ không yên với chúng. Vì vậy ông gầy sọp, mặt hốc hác, chứ đâu béo tốt như người khác. Chiếc kính lúp phóng đại lúc nào cũng nằm ngay trước mặt, giúp cho đôi mắt đỡ mỏi mệt khi phải làm việc liên tục. Tôi thật sự ái ngại cho ông ấy.


   Một điều đặc biệt nữa mà ông Mĩ và nhiều người không biết: Tôi làm đốc công chỉ một tháng, sau đó Na Sơ, Chỉ huy trưởng công trường Cụm II bảo tôi giao việc lại cho người khác. Tôi không biết việc mới là gì. Trong những lúc Na- Sơ ra hiện trường trao đổi và gửi cho tôi những bản vẽ nhỏ để giao nhiệm vụ cho từng tổ, tôi đã nắm được vị trí ở đâu, trục nào, tim nào, cao độ bao nhiêu đã ghi trong bản vẽ.

Một tuần sau tôi đã vẽ xong mặt bằng tổ chức thi công cho từng hạng mục, Na Sơ hỏi bản vẽ này ông lấy ở đâu? Tôi trả lời: - Lấy ngay những bản vẽ nhỏ ông đưa cho tôi. Tôi chỉ tổng hợp lại. Ông ta ngạc nhiên lắm.

Sau đó, anh Phạm Đức Hoàn là phiên dịch tiếng Anh nói với Na Sơ rằng: Ở Việt Nam, ông ấy là Trưởng phòng Kỹ thuật và Giám định của một Tổng B, trên công trường gần một vạn người thi công là nhà máy nhiệt điện Phả Lại gồm 4 tổ máy, do Liên viện trợ. Ông Huệ nhiều kinh nghiệm tổ chức thi công những công trình lớn ở Việt Nam. Na Sơ phục tài và từ khâm phục đến tin tưởng giao việc một cách trân trọng.

Mấy hôm sau, Na Sơ gọi tôi vào văn phòng công trường làm việc. Sau khi sai người phục vụ Xu Đăng pha nước chè đen và đường mời tôi uống, ông ấy nói từng lời rành mạch:

-    Tôi được biết ông là kỹ sư thiết kế công trình, đã tham gia thi công nhiều công trình lớn ở Việt Nam, ông hãy giúp lập bản vẽ mặt bằng tổ chức thi công cho phần còn lại của công trình 250 và 310. Máy móc thi công tại công trường gồm những loại gì, ông biết cả rồi, có thắc mắc gì, ông trao đổi với tôi. Sau đó ông ấy giao cả tập bản vẽ để tôi nghiên cứu.

Sau giờ làm việc mỗi ngày, tôi lại mang hồ sơ về nhà xem xét, dự tính. Sáng hôm sau lại gặp Na Sơ trình bày dự kiến và phác thảo cho ông ta nghe. Trân trọng, tin tưởng và cảm phục mà tôi cảm nhận được trên nét mặt khôi ngô, thanh tú của một người kỹ sư da trắng.

Nhà ông ấy ở thành phố Mô Sun cách công trường 180 km. Ngày nào cũng sáng đi chiều về. Đi lại bằng chiếc xe TOYOTA bốn chỗ mới tinh. Gia đình tư bản nhưng chi tiêu của họ rất đúng mực, không  ăn chơi xa hoa như những đại gia  ở xứ mình. Sau này tôi mới ngẫm ra tại sao Na Sơ giàu có mà ít quan tâm thưởng thêm giờ cho những người khác, trong đó kiến trúc Phạm Vũ Mỹ.


 Tôi đưa tập bản vẽ công trình về nhà đến lần thứ tư, ra đến cổng, quân cảnh ách lại hỏi: Tài liệu này ông lấy đâu? Tôi trả lời: do ông Na Sơ giao cho tôi đem về lập bản vẽ biện pháp thi công cho công trình. Quân cảnh nói: chúng tôi giữ lại tài liệu này. Không còn cách nào khác, tôi giao luôn cho họ.

Đây là tập bản vẽ thiết kế của một cụm công trình quân sự quan trọng. Tôi rất sợ đến sự liên lụy an toàn của bản thân mình. Tối hôm đó tôi không thể nào ngon giấc.

Sáng hôm sau gặp Na Sơ tại công trường, ông ta nói: Quân cảnh đã trao lại tài liệu cho văn phòng. Từ hôm nay ông không được mang ra ngoài. Ông cứ vào đây nghiên cứu, không phải làm đêm ở nhà.

Tôi thật sự đỡ lo lắng và từ hôm đó hạn chế việc tiếp xúc với những tài liệu ấy, chỉ trao đổi trực tiếp khi cùng ngoài công trường với Na Sơ mà thôi.


Một điều may mắn tại Cụm II, qua hai năm thi công chưa xảy ra một vụ tai nạn lao động nghiêm trọng nào, mặc dù nhiều vị trí cao hàng chục mét, cheo leo, rất dễ tuột chân. Không có vụ rơi gỗ, rơi sắt thép hoặc các vật liệu nào khác gây thương tích, cũng chưa bao giờ bị sập hoặc đổ dàn giáo.

Trong xây dựng không ai nói trước được điều gì cả. Nhờ đội ngũ công nhân lành nghề, nhờ đội ngũ đốc công sâu sát và cũng nhờ biện pháp thi công hợp lý nên đã bình yên mọi nhẽ.

Hai năm trời an toàn cho mọi người là điều hạnh phúc vô cùng lớn đối với người những kỹ sư xây dựng như chúng tôi.

lăng mộ đá toyota thanh hóa