( Truyện ngắn của Nguyễn Quang Huệ )
Câu chuyện này nói về những cán bộ, công nhân Việt Nam đi xuất khẩu lao động ở Cộng hòa Iraq những năm 1988 – 1990.
Để
trả nợ việc nước ta được chính phủ bạn cho vay dầu phục vụ chiến tranh, xây dựng hòa bình sau năm 1975.
Không như anh em đi các nước Đông Âu,
sang đến nơi chỉ làm việc một thời gian rồi tìm cách bỏ việc ra ngoài kinh
doanh buôn bán các mặt hàng khan hiếm, kiếm tiền dễ dàng hơn. Ở Iraq không có
chuyện tìm việc làm ngoài. Nhưng một ít công nhân mình lại có sáng kiến làm
bánh cuốn. Muốn có sản phẩm phải có công cụ là cối xay bột. Chụm đầu vào nhau
phát huy sáng kiến để tạo ra cối xay.
Mấy
thợ nề bậc cao mày mò rồi cũng làm ra một cái cối bằng xi măng cát, sỏi nhỏ. Thớt
trên thớt dưới đủ cả. Sau khi đổ khuôn, bảo dưỡng tưới nước đủ 28 ngày. Đến khi
cối đạt cường độ cho phép, mỗi người một việc: Người ngâm gạo, người xay, người
tráng bánh, hào hứng như một xưởng sản xuất. Từ đó bánh phở, bánh cuốn ra đời
phục vụ anh em mình. Chỉ có điều không có nước mắm để pha chế nước chấm, đành
phải lấy mì chính pha nước muối, hạt tiêu, đường thắng lên tạo mầu như nước mắm.
Ăn bánh cuốn xứ người để đỡ nhớ một sản phẩm quê hương. Ăn để an ủi phần nào khi
xa làng quê yêu dấu.
Một bạn đã sang, làm việc được sáu
tháng viết thư về cho vợ báo tin: Chú Nguyễn Văn Hữu ( Thợ nề ) đã làm giúp
anh cái cối xay bột để làm bánh cuốn, bán bánh kiếm tiền. Nhưng được mấy chục
hôm cối bị vỡ. Bạn này cũng hóm hỉnh làm mấy câu thơ gửi về quê trêu vợ:
-
Anh sang Iraq làm mì
Cối
xay thì hỏng, cối dì còn nguyên?
Vợ viết
thư sang động viên chồng:
-
Mười tám tháng nữa hàn huyên
Thớt
trên thớt dưới lại liền như xưa.
Ông
chồng viêt thư về giải thích cho rõ vì chắc chắn vợ hiểu lầm:
-
Anh sang Iraq làm mì
Cối
nhà đã hỏng, cối Dì còn không ?
-
Hỏi gì nhăng cuội vậy ông
Cối
nhà không giữ chỉ trông cối Dì ?
Cối
Dì người đã mang đi
Có
mong chẳng được làm chi đến phần
Khôn
hồn thì giữ lấy thân!...
Có chàng về đến khu nhà ở, vào căng tin hỏi
mua một khay trứng nhưng cứ đòi chị chủ quán người Việt cùng đoàn đáng tuổi mẹ mình
mang ra ngoài. Anh chàng luồn tay vuốt từ chân đến ngang bụng, lướt qua
đụng vào cả vùng nhậy cảm. Anh ta bị mắng té tát nhưng hắn chỉ cười trừ bảo rằng
do xa vợ lâu ngày quá nên xin chị thông cảm. Tất nhiên khay trứng không bị
rơi, thế mới lạ. Cả bọn được trận
cười khoái chí.
Chúng tôi sang Iraq làm việc được ba tháng
thì được tin đợt công nhân mới sắp sang. Trong số đó có một nhân vật nữ Kiến trúc sư Tạ Minh Hải. Cô sang đây với nhiệm vụ phiên dịch tiếng Anh. Vốn xuất
thân con gái của một cán bộ cao cấp hàm Thứ trưởng, ở Hà Nội, học ở
Nga về, làn da trắng trẻo, cao ráo, xinh gái có khuôn mặt ưa nhìn nên có sức hấp
dẫn lạ kỳ ở xứ sở chỉ có đàn ông. Một bông hồng giữa sa mạc khô cằn nên được cả
công trường quan tâm.
Mấy đêm đầu tiên lúc cô sang cứ phải đóng
cửa ngồi trong nhà vì người đến chen nhau xem mặt. Tây trắng như Ba Lan, Nam
Hàn, Tây đen như Xu Đăng, da nâu như Ấn Độ, Bangladesh Cai ro, cả da vàng Việt
Nam, xúm xít vây quanh phòng ở. Ngó nghiêng cố tìm ra một lỗ nhỏ để ngó xem cho
rõ.
Có
người ở ngoài cố hỏi vọng vào những câu vu vơ: - Chị ơi, chị đi đường có mệt
không? Chị có bị sao không? Hoặc : - Em ơi, em mở cửa ra có được không? Tất
nhiên không có câu trả lời nào cả!
Tôi
có làm bài thơ tặng em như sau:
Chỉ
có mình em
(
Tặng Kiến trúc sư Tạ Minh Hải,
Kỷ
niệm một thời làm việc tại Iraq 1988 – 1990 )
Như bông hoa giữa bạt ngàn sa mạc
Khi em sang bao người thêm nháo nhác
Muốn hỏi thăm nhưng cửa đóng then cài.
Người chung quanh vây kín khắp vòng ngoài
Đủ bốn màu da: đen nâu vàng trắng
Em trong đó như bình minh ló rạng
Chỉ trông qua hình dáng cũng được mà…
Cả công trường chỉ có một bông hoa
Trên ngàn người, một mình em khác giới
Mấy tháng nay quay cuồng như muỗi đói
Khi em sang sáng chói cả bầu trời.
Thôi em đừng đi làm nữa em ơi
Ra công trường làm chi cho bụi bậm
Em cứ ở nhà cho mọi người được ngắm
Việc phòng ban nhiều ít các anh lo.
Chỉ cần tươi như hoa nở giữa mùa
Làm đẹp Việt Nam ở xứ người Ả Rập
Các anh mong không gì khuất lấp
Hết hợp đồng ta về lại cố hương…
Nói
rằng chỉ mình em là nữ thì không khách quan. Trong một đoàn sang cũng có vài ba
người đi làm cấp dưỡng. Các bạn ấy chỉ cao tầm thước rưỡi, da bánh mật, tóc tai
ít được chăm sóc nhưng tốt tính, không ngại công việc nặng nhọc nào. Thực sự những lao động nữ ở công trường. Nhưng trong con mắt đàn ông xuất ngoại,
tiêu chuẩn đó chưa đủ nên các lão thờ ơ. Tính chất công việc lại khác nhau.
Các chị dậy làm việc từ sớm, tối về các chị lo tắm giặt, nghỉ ngơi hết thời
gian, ít khi có điều kiện gần gũi để làm quen tâm sự.
Nhưng cuối cùng cũng có đôi, có cặp, đâu
vào đấy cả…