Thơ Minh Hiền và lời bình của Nghiêm Thản

Trân trọng giới thiệu cùng các bạn: Nhà thơ Minh Hiền và nhà thơ Nghiêm Thản cùng là hội viên của Diễn Đàn Văn hóa Nghệ thuật Đường sắt và Xây Dựng VN. Những sáng tác của 2 người đã nằm lòng bao bạn đọc. Tôi xin phép đưa lên những sáng tác mới của nhà thơ Minh Hiền và Nghiêm Thản về bài viết của hai người lên trang cá nhân để bạn bè tôi có dịp làm quen với hai bạn nhé.

TA HÃY XEM NỖI LO LẮNG TRĂN TRỞ CỦA
NỮ SĨ MINH HIỀN QUA BÀI THƠ “LỆCH”
LỆCH
Sợ rằng đêm vẫn khoác đen
Sợ ngày nắng rát, để duyên cạn mùa
Sợ mưa bong bóng cứ đùa
Sợ hồn giông bão cứ ùa vào tôi
Lệch mùa trăng sẻ làm đôi
Lệch anh em thả thơ trôi cho bằng.
Minh Hiền
Lời bình: Nghiêm Thản
Trong dân gian mọi người thường nói “Thế gian được vợ hỏng chồng”. Đó là sự triết lý của ông cha ta từ bao đời nay, tất cả mọi việc trên đời, ít có sự hoàn hảo, mà hoàn hảo đến tuyệt đối lại càng khó. Chỉ sáu câu lục bát nhà thơ Minh Hiền đã khắc họa nên điều đó. Cũng giống như câu ca dao:“Bây giờ chồng thấp vợ cao / Như đôi đũa lệch so sao cho bằng”. Đó chính là cái lệch nhau trong cuộc sống. Cũng chính vì thế nên tác giả sợ nhiều điều:
“Sợ rằng đêm vẫn khoác đen
Sợ ngày bỏng rát, để duyên cạn mùa”
Nhà thơ sợ “đêm vẫn khoác đen” hay sợ cái bóng tối cứ bao trùm mãi cuộc đời. Những đau thương, mất mát khổ đau, những dằn vặt, cô đơn... Cứ đeo đẳng theo suốt cuộc đời. Ở đây ta thấy tác giả dùng phép tu từ thật độc đáo, từ “đêm” có nghĩa là tối, mà đã tối thì phải “đen”. Từ “đen” đồng nghĩa với tối, mà đã tối tức là “đêm”. Đọc câu thơ ta thấy cái thi vị của thơ, ta thấy giá trị của ngôn ngữ trong thơ, ta thấy yêu thơ hơn. Câu thơ nó hay ở chỗ “đêm vẫn khoác đen”. Đã đêm rồi, đã tối tăm rồi, đã đen rồi còn khoác thêm đen. Thử hỏi cuộc đời đen tối, khổ hạnh đến bao giờ mới nhìn ra ánh sáng. Từ “khoác” ở đây thật thú vị, “khoác” gần đồng nghĩa với trùm, cuộc đời đã tăm tối còn trùm thêm đen bạc thì khổ sở biết chừng nào. Đấy là Minh Hiền sợ cái bóng đêm dài dằng dặc. Còn ngày thì sao, ta hãy xem sự lo lắng của chị:“Sợ ngày nắng rát, để duyên cạn mùa”. Cái sợ “Ngày nắng rát” của chị cũng như Tố Hữu đã viết:
“Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”
(Khi con tu hú).
Tiếng chim tu hú kêu hay tiếng than vãn của con người. Đêm thì sợ kéo dài lê thê, ngày thì sợ nắng chói trang bỏng rát như quất vào da thịt. Hoàn cảnh thật trớ trêu, nó ngột ngạt u uất,“để duyên cạn mùa”. Từ “duyên” đã lý giải cho câu thơ. Không phải cuộc sống éo le vất vả, mà là một cuộc tình trái ngang, chật chội. “Duyên cạn mùa” hay tình yêu đã dần dần héo hon thui chột. Bát nước đầy lỡ đổ vớt lại không? Chưa hết tác giả vẫn còn:
“Sợ mưa bong bóng cứ đùa
Sợ hồn giông bão cứ ùa vào tôi”.
Nói đến hình ảnh “mưa bong bóng” người ta thường liên tưởng đến sự đổ vỡ chia ly, cách trở:
“Trời mưa bong bóng phập phồng
Mẹ đi lấy chồng con ở với ai?”
(Ca dao).
Tình yêu mong manh, mơ hồ như những quả bong bóng trôi nổi dưới mặt đất giữa trời mưa, phập phồng to nhỏ rồi lại tan vỡ đi, cứ thế, cứ thế... Như giỡn đùa với số phận, nó cũng sẽ tan như bong bóng xà phòng. Và chẳng bao giờ phồng lên được, thế là hết. Điệp từ “sợ” được lập lại tới bốn lần, tác giả đã khái quát được nỗi lo lắng trăn trở trước cuộc đời. Lần cuối cùng tác giả “sợ hồn giông bão”, hay sợ sự vùi dập, sợ sự tàn phá, sợ cái gì sắp đổ vỡ, hoang tàn, cô đơn, hiu hắt. Bốn câu lục bát liên tục đối nhau: “Đêm” đối với “ngày”, “nắng” đối với “mưa”, “mưa” đối với “giông, gió” càng làm tăng sự lo lắng, dằn vặt, như những đợt sóng cứ nối tiếp nhau lớp lớp chồm lên nhấn chìm đi cái gọi là hạnh phúc. Đây cũng chính là thủ pháp độc đáo sử dụng cách tiểu đối trong thơ của Minh Hiền. Những cái “sợ” của tác giả, đã mô phỏng, chính là từ những cái “lệch” trong cuộc sống:
“Lệch mùa trăng sẻ làm đôi
Lệch anh em thả thơ trôi cho bằng”.
Một sự so sánh thật thú vị mà lãng mạn, cái “lệch” của tình yêu đôi lứa lại ví như “lệch mùa trăng”. Đành rằng ai cũng biết trăng thì khi tròn khi khuyết, dù có lệch mùa vẫn thế thôi. Nhưng hình ảnh vầng trăng sẻ nửa thì thật phũ phàng ngang trái. Ta vẫn biết mùa trăng là mùa thu, trời trong xanh leo lẻo, nên ánh trăng lại càng sáng như cụ Nguyễn Khuyến đã vịnh:
“ Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào”
(Thu vịnh)
Mùa trăng đẹp là vậy. Mùa trăng cũng là mùa cưới, mùa xây tổ ấm của những đôi uyên ương. “Hoa cúc vàng bắt đầu mùa cưới đó / Nắng hanh hanh cho má em ửng đỏ / Gió heo về mang hương vị tình yêu” (Chuyện chúng Mình của N.T), mà lệch mùa thì thật là buồn, nó tạo nên sự huyền ảo, ảm đạm, mơ hồ, nhạt nhẽo. cái “lệch mùa” ấy Hàn Mặc Tử cũng đã viết:
“Ánh trăng mỏng quá không che nổi
Những vẻ xanh xao của mặt hồ”
(Huyền ảo)
Trăng trong thơ của Minh Hiền đã “lệch mùa” lại bị sẻ làm đôi thì buồn quá. Có phải chăng đây là sự đổ vỡ của những cuộc tình ngang trái. Vậy nên chị sợ “ đêm vẫn khoác đen” là đúng thôi . Khi đã lệch, ai cũng muốn kê cho bằng. Sự tha thứ, lòng vị tha, tính nhân văn trong mỗi con người lại là điều cần thiết. Nhưng tác giả lại gửi hồn mình vào thơ, chị chắp cánh cho thơ bay trong gió, chị “ thả thơ trôi cho bằng” .Câu kết thật thú vị, chị viết rất ảo mà lại đúng. Bởi thơ đâu phải một vật gì mà đem kê cho khỏi lệch, Nhưng thơ lại làm được điều đó, và hơn thế nữa. Tính hiện thực trong thơ của Minh Hiền đã được lý giải, bởi không ít trong thực tế đã minh chứng. Những sân chơi đã ít nhiều kéo lại sự thăng bằng trong cuộc sống.
Với bốn mươi hai từ Minh Hiền ghép thành sáu câu lục bát, như đã giãi bày tình cảm, chia sẻ với độc giả bằng cách nén câu, nén chữ, ngắn gọn mà đầy đủ, súc tích. Giàu hình ảnh, trìu tượng mà cụ thể, ảo mà thật, dễ hiểu . Những thủ pháp tu từ, tiểu đối, so sánh, cách dùng điệp từ biểu cảm. Chị đã như dựng lại những màn tình cảm, của những cuộc tình có thật trong đời thường, như lời cảnh báo, răn đe. Có thể nói rằng: Sáu câu lục bát của chị, là sáu câu thơ tài hoa. Bởi nếu ta chỉ đọc riêng từng câu, bất kì ở dòng nào, một mình nó cũng đã tỏa sáng, đủ nghĩa, và chuyển tải được đầy đủ nội dung của câu thơ, như những lời triết lý (bốn cái “sợ” hai cái “lệch”). Tôi được biết gần đây Minh Hiền viết rất xung sức và chắc tay. Chúc chị khỏe mạnh, giàu cảm súc để có những tác phẩm hay hơn.
Hà Nội 16 - 10 – 2014
Nghiêm Thản

Bài của nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo

Xin phép anh, tôi đưa cả bài đăng của anh vào trang cá nhân để bạn bè tôi cùng đọc. Đây cũng là kỷ niệm của tôi đối với anh. Cũng như những tấm ảnh mà anh cùng tôi chụp ở Đài Tiếng Nói VN và những dòng nhận xét về thơ thiếu nhi của tôi mà anh đã viết, giấy giới thiệu tôi vào HNV VN từ năm 2013 cùng với nhà thơ Đỗ Hàn. Những kỷ niệm ấy giữa tôi và các anh làm sao quên được.
Chúc anh qua khỏi mọi khắc nghiệt của bệnh tật và tiếp tục sáng tạo nghệ thuật anh nhé.
Cám ơn Nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo.
Hà Nội ngày 4 tháng 11 năm 2018.

 CẢM TẠ LÀNG QUÊ BẰNG KHÚC HÁT SÔNG QUÊ - NGUYỄN TRỌNG TẠO

Trường hợp tôi viết bài hát “Khúc hát sông quê” cũng là một bất ngờ.
Cuối tháng 8 năm 2002 hội Nhạc sĩ VN tổ chức trại sáng tác hợp xướng ở Vũng Tàu, tôi tham gia trại và dồn thời gian viết hợp xướng “Hạt bụi”. Hạt bụi là một thứ nhỏ nhoi, không có gì đáng để ý. Nhưng người ta thường nói, con người cũng chỉ là hạt bụi, sinh ra từ cát bụi rồi trở về với cát bụi. “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi/ Để một mai tôi về làm cát bụi” – (Trịnh Công Sơn). Tôi suy nghĩ rất nhiều về hình tượng con người bé nhỏ với cuộc sống ngắn ngủi trong thiên nhiên rộng lớn vĩnh hằng, sẽ được diễn tả bằng hình thức hợp xướng. Tôi muốn có cả giàn hợp xướng trăm người, ngàn người để hát về “hạt bụi” nhỏ nhoi…
Đang vật lộn với “hạt bụi” thì ông bạn thơ Lê Huy Mậu (quê xứ Nghệ sống ở Vũng Tàu) đến rủ đi nhậu. Mậu đã kéo tôi ra khỏi dòng mạch cảm xúc đang dồn nén, khá căng thẳng. Thế là đi. Nhậu tưng bừng. Nhậu mút mùa. Nhậu khuya lắm mới về. Trước khi ra về, Lê Huy Mậu đưa tôi mấy bài thơ nhờ xem và nhờ đưa in báo Văn Nghệ cho anh. Chả là lúc đó Mậu đang viết đơn xin vào Hội Nhà Văn VN. In thêm một chùm thơ trên báo Văn Nghệ của hội sẽ tăng thêm sức nặng cho việc vào hội của anh. Tôi hứa sẽ đọc và chùm thơ hay thì sẽ đưa in cho anh.
Nhậu xong cũng đã khuya, Mậu chở tôi về phòng rồi chia tay, vì cũng đã say nhừ. Tôi đóng cửa ngủ vùi. Sáng dậy chạy ra biển tắm cho “giã rượu”. Tắm nửa giờ mà khi lên bờ vẫn còn chếnh choáng. Về phòng, tôi thấy trên bàn những bài thơ của Mậu. Chợt nhớ là phải đọc xem sao. Tôi ngồi vào bàn đọc, và khi đọc đến bài thơ dài “Khúc hát sông quê” thì lặng người xúc động. Đây không phải là một bài thơ độc lập, mà là một chương trong trường ca chưa in của Mậu. Rất lạ là chương trường ca này làm tôi cảm động, nó làm tôi thấy có một điều gì đó thật xa xăm, sâu thẳm cuốn hút tôi. Thì ra quê Mậu cũng giống quê tôi. Cũng con sông đôi bờ phù sa. Cũng những kiếp người lam lũ. Cũng lòng yêu thương và nhân hậu. Nhưng Mậu đã đã bắt được cái hồn quê nguyên ủy trong con người quê của Mậu. Mộc mạc, chân tình, nhưng độc đáo và day dứt đến không ngờ:
quê hương ta nghèo lắm
ta rửa rau bến sông cho con cá cùng ăn
ta mổ lợn
con quạ khoang cũng ngồi chờ chia thịt
cá dưới sông cũng có tết như người
Những câu thơ khiến tôi ứa nước mắt.
Tôi đọc lại bài thơ và chính những câu thơ đầu tiên đã ngân lên âm nhạc. “Quá nửa đời phiêu dạt/ ta lại về úp mặt vào sông quê”, (khi đó tôi thay chữ ta bằng chữ con để xác định sông cũng là Mẹ). Rồi tôi đọc lần thứ ba, chọn lọc và viết lại một số câu thơ của anh cho hợp với sự phát triển của âm nhạc. Lần này thì toàn bộ bài hát đã ngân lên trong tôi. Tôi lấy giấy nhạc ra, và chỉ cần chép lại bản nhạc đã lưu vào bộ nhớ trong đầu tôi. Có những câu nhạc đã vang lên, nhưng lời thơ lại không hợp với các nốt nhạc. Tôi cứ để trống phần lời, vì với tôi, khi viết nhạc, tôi rất chú trọng đến khúc thức bản nhạc, như âm nhạc là một tác phẩm độc lập, không phụ thuộc vào lời thơ. Khi phổ nhạc cho thơ, tôi không thích âm nhạc phải “chạy theo” thơ, đánh mất tính độc lập của nó để rồi cuối cùng chỉ thành một tác phẩm “hát thơ”. Tôi muốn nó là một nhạc phẩm hoàn chỉnh, chỉ dựa trên cảm xúc của thơ, dựa vào lời thơ để làm nên một sáng tạo mới trong một loại hình khác. Khi viết xong phần nhạc, tôi viết lời cho những câu nhạc còn để trống. Nhiều câu thơ không thể bê nguyên xi vào bản nhạc được, ví dụ:
Này dòng sông
ngươi còn nhớ chốn ta ngồi ngóng mẹ
phiên chợ Lường vời vợi tuổi thơ ta
sao ngày ấy ta dễ ngoan đến thế
mẹ cho ta một xu bánh đa vừng
tôi phải viết lại cho hợp với âm nhạc:
Ơi con sông quê, con sông quê
Sông còn nhớ chăng nơi ta ngồi ngóng mẹ
Vời vợi tuổi thơ một xu bánh đa vừng
Hoặc trong thơ Mậu viết:
trên bãi sông
ta trồng cây cải tươi
ta ăn lá còn bướm ong thì hút mật
lúa gặt rồi - còn lại rơm thơm
Tôi rất thích câu “lúa gặt rồi - còn lại rơm thơm” nhưng để giữ được câu đó, tôi phải dẫn dắt bằng những hình ảnh quen thuộc ở chốn sông quê “con cá dưới sông, cây trồng trên bãi” như một sự hiển nhiên. Nhờ cái sự hiển nhiên đó mà nó làm “đòn bẩy” cho câu tiếp theo “lúa gặt rồi – còn để lại rơm thơm” mang được ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc bất ngờ.
Nói chung, ca từ nhiều khi mang tính ước lệ mà vẫn tạo được ấn tượng mạnh vì nó đã có âm nhạc mang vác, chuyển tải, chắp cánh.
Và cuối cùng là câu kết, gói lại, cũng là mở ra hình tượng con sông quê, chính là hình tượng người mẹ, hình tượng quê hương mãi mãi trào dâng trong tâm trí mỗi người: “Một dòng xanh trong chảy mãi tới vô cùng”. Câu thơ này không có trong bài thơ. Khi viết xong bài hát, tôi tặng Lê Huy Mậu câu này để kết bài thơ, và Mậu rất vui.
Bài hát viết xong khá nhanh. Có lẽ đây là bài hát tôi viết nhanh nhất trong đời viết nhạc của mình. Lúc ấy mới gần 8 giờ sáng. Trong bản thảo đầu tiên của bài hát này được ghi “Vũng Tàu, ngày 2.9.2002”.
Tôi vui mừng gọi điện thông báo cho Lê Huy Mậu và bảo anh đến nghe rồi cùng đi ăn sáng. Mậu phóng xe máy đến, ngồi trên chiếc giường trải drap trắng phẳng lì. Tôi pha ấm trà nóng rồi hát cho Mậu nghe. Mậu nghe chăm chú, đến câu kết thúc thì bất ngờ anh nằm ngã ngửa trên giường, hai tay giang ra như một cây thánh giá. Tôi nhìn mặt anh như sưng vênh lên với tình cảm khó tả. Tôi hỏi: “Sao ông lại nằm đuỗn ra thế? Phổ vậy được không?”. Chợt anh ngồi vùng dậy, và nói một câu khá bất ngờ với tôi: “Anh làm tôi nổi tiếng đến nơi rồi! Bài hát này tôi tin là mọi người sẽ hát…”.
Chúng tôi đi ăn sáng cho đến chiều tối thì nhận được điện của nhóm ca sĩ Hà Nội đang hát ở Vũng Tàu. Cuộc gặp gỡ đêm ấy bên bờ biển, NSND Thu Hiền đã cầm bản nhạc hát cho mọi người nghe và chị nói vui “Anh cho Thu Hiền độc quyền bài này nhé”. Sau đó Thu Hiền thu thanh ở Sài Gòn và lấy tên Allbum là “Khúc hát sông quê”.
Khi trở lại Hà Nội, tôi đưa bài này cho VTV và chọn giọng hát Anh Thơ. Tôi có nghe Anh Thơ hát vài lần và nghĩ, giọng Anh Thơ sẽ hợp với bài hát này, sự trong sáng và chuẩn mực sẽ làm cho bài hát đẹp hơn. Tôi đem bản nhạc đến nhà cho Anh Thơ. Anh Thơ đang nấu bếp, phục vụ ông bố chồng bị ốm, nhưng cũng dành chút thời gian xem bản nhạc và nghe tôi hát qua vài lần. Anh Thơ có vẻ thích thú, vừa nấu bếp vừa tập, và nhận lời thu tiếng, thu hình bài hát này. Khi thu thanh, Anh Thơ đã gần như thuộc bài hát. Chỉ thu vài lần là OK. Các kỹ thuật viên của đài vì quá thích nên đã “cóp” đĩa về nhà nghe, dù không được phép. Vài tuần sau đó, bài hát được giới thiệu lần đầu tiên trong chương trình Tác phẩm mới của VTV. Tôi không ngờ nó lại được công chúng yêu chuộng đến thế. Hầu như từ đó, ngày nào bài hát này cũng được hát nơi này nơi khác, rồi nó trở thành một “hội chứng” mang tên Khúc hát sông quê.
Cuối năm đó, Lê Huy Mậu được kết nạp vào hội Nhà Văn với số phiếu tuyệt đối. Thỉnh thoảng anh gọi điện cho tôi kêu khổ vì "Fan" mời bia rượu suốt ngày, nhiều hôm mệt lử. Rồi đến đại hội văn nghệ tỉnh, anh em bàu Mậu làm Chủ tịch hội, vì anh sở hữu sự nổi tiếng nhất Bà Rịa - Vũng Tàu. Lại có người Việt ở hải ngoại mê bài hát này muốn mời cả "Nhạc và Lời" ra nước ngoài chơi...
Tôi đến châu Âu, châu Mỹ lần nào cũng được nghe Việt kiều hát “Khúc hát sông quê” với thật nhiều thiện cảm. Có người vì quá yêu bài hát này mà sẵn sàng đưa tác giả đi đây đi đó quên cả việc riêng, khiến tôi không thể nào quên được.
Đời một người sáng tác, hạnh phúc là tác phẩm của mình được công chúng đón nhận và yêu thích. Nhưng hạnh phúc nhất với tôi là nó được người làng tôi tâm đắc, chia sẻ và tự hào. Vâng, làng quê, nơi cất dấu và hiến dâng cho ta bao tài sản tinh thần vô giá… Xin mãi mãi cảm tạ làng quê!...
Hà Nội, 12.2010
*
Bài thơ:
KHÚC HÁT SÔNG QUÊ
Lê Huy Mậu
Ngỡ như người đã hát thay tôi
ngỡ như tôi đã lẫn vào câu hát
tuổi thơ ơi!
quá nửa đời phiêu dạt
ta lại về úp mặt vào sông quê
như thuở nhỏ
úp mặt vào lòng mẹ
để tìm sự chở che...
Xin bắt đầu từ hạt phù sa
ta cúi nhặt tình cờ bên bờ sông tháng Chạp
ôi! phù sa
những cá thể tự do trong hành trình của đất
đêm nao
chớp bể, mưa nguồn
trong cơn thác lũ
trong sóng đỏ
đất đi
kiến tạo
sinh thành...
Em ơi!
quả ớt cay bổi hổi
trên bãi sông
thuở chưa dấu chân người
anh nghe nói
có một thời
tất cả còn hoang dại
tổ tiên ta chỉ hái lượm mà thôi.
lại nghe nói
thuở ta chưa biết ăn gì cả
ta cùng cây cỏ sinh đôi
rồi cây cỏ ăn ta
rồi ta ăn cây cỏ
cũng là khi cay đắng, ngọt bùi
ta và đất kết giao
lấy dòng sông làm lời thề non nước...
Chẳng biết ta đã ăn ở thế nào với đất
mà đất lở sông ơi!
nơi ta chăn trâu, thả diều ngày cũ đã đâu rồi
hạt đất quê ta giờ đã bồi về đâu chẳng biết
có làng xóm nào sinh
có hòn đảo nào sinh
từ hạt đất bờ sông quê ta lở
như cuộc đời ta khuyết hao
để đắp bồi rờ rỡ
những sớm má hồng ríu rít cháu con ta...
Này dòng sông!
ai đã đặt tên cho sông là sông Cả?
ai đã gọi sông Cả là sông Lam?
ta đơn giản chỉ gọi là con sông quê hương
tháng Ba phù sa sóng đỏ
cá mương đớp ngọn lúa đòng đòng
tháng Năm
ta lặn bắt cá ngạnh nguồn
tháng Chín
cá lòng bong
ta thả câu bằng mồi con giun vạc
tháng Chạp
ta nếm vị heo may trên má em hồng...
Để rồi ta đi khắp núi sông
ta lại gặp
tháng Ba... tháng Năm... tháng Chạp
trong vị cá sông
trên má em hồng.
Này dòng sông
ngươi còn nhớ chốn ta ngồi ngóng mẹ
phiên chợ Lường vời vợi tuổi thơ ta
sao ngày ấy ta dễ ngoan đến thế
mẹ cho ta một xu bánh đa vừng
ta ngoan hết một ngày
ta ngoan suốt cả năm
ta thương mẹ đến trọn đời ta sống
quê hương ta nghèo lắm
ta rửa rau bến sông cho con cá cùng ăn
ta mổ lợn
con quạ khoang cũng ngồi chờ chia thịt
cá dưới sông cũng có tết như người
trên bãi sông
ta trồng cây cải tươi
ta ăn lá còn bướm ong thì hút mật
lúa gặt rồi - còn lại rơm thơm
trâu đủng đỉnh nhai cả mùa đông lạnh...
Cùng một bến sông
phía dưới trâu đằm
phía trên ta tắm...
trong ký ức ta
sao ngày xưa yên ổn quá chừng
một dòng xanh trong chảy mãi đến vô cùng!...
(Trích trường ca THỜI GIAN KHẮC KHOẢI của nhà thơ Lê Huy Mậu)

Chia tay

( Gửi  NT )

Biết là em trẻ, em xinh
Nhưng anh đâu giám quên mình tuổi cao
Cầm lòng trong nỗi khát khao
Lời em đã ngỏ mà nào... !! Em ơi !
Tương lai như buổi tối trời
Lao vào tình ái cho đời giở dang
Biết bao lá ngọc cành vàng
Thuyền tình rộng mở đón nàng sang sông...

Dù cho sấm chớp bão giông
Đời em hạnh phúc là lòng anh vui
Khuyên em hãy gắng mỉm cười
Trời xanh mây trắng trao lời thân thương...

lăng mộ đá toyota thanh hóa