Những ngôi mộ bên đường

    Những ai có dịp lưu thông trên đường bằng ô tô, xe máy hay tàu hỏa đều đã gặp những ngôi mộ bên đường, nhất là đường Quốc lộ hoặc Tỉnh lộ. Mỗi mộ một vẻ, cái to, cái bé, cái có bát hương, ảnh đá. Lại có cái được ốp lát gạch quý, đá quý, có khung, có mái để đặt lễ vật thờ tự rất quy mô. Phần lớn những người dưới mộ đều còn trẻ, có khi là chủ gia đình.
     Sự ra đi của họ để lại đàn con bơ vơ, không nơi nương tựa, cha mẹ già mà vẫn phải cưu mang, nuôi đàn cháu nhỏ dại khi không còn bố mẹ chúng trên đời… Phần lớn trong đó là do tai nạn giao thông. Họ tử vong ngay lập tức, cơ thể dập nát, đứt rời cơ thể, trông rất thảm thương mà người thân không biết hoặc không có điều kiện đưa về nhà mai táng…
    Gặp những ngôi mộ ấy bên đường, người chứng kiến không khỏi ngậm ngùi, thương xót họ, mà còn nhắc nhở cánh cầm lái phải thận trọng, tránh rủi ro cho mình, gia đình mình và bảo vệ khách hàng yêu quý.
    Đó là chuyện của các năm trước đây, hồi mới giải phóng Miền Nam. Còn bây giờ các mộ đó đã được di dời  phục vụ cho việc mở rộng đường và nâng cao chất lượng, thành đường cao tốc nên chúng ta ít gặp.

    Tôi muốn nói đến những ngôi mộ đặc biệt, trước đây, khi mà chưa có nhiều ô tô và xe máy như bây giờ. Người chết do nạn đói mấy chục năm về trước: Đó là mộ của ông cụ già qua đời giữa đường huyện lộ, đoạn từ Cồn Hàng đi Yên Sở. Hai bên đường là hai cánh đồng, lúa mới bén rễ đang lên xanh. Tôi đoán chắc khoảng tháng hai âm lịch gì đó. Không biết ông cụ đến đây từ bao giờ, người đi đường chỉ biết rằng: chiều qua vẫn chưa gặp cụ. Sáng hôm sau khi trời đã sáng rõ, những người đi Chợ Sở, Chợ Dinh bán cá mới phát hiện cụ đã chết từ đêm. Vì ở giữa cánh đồng hai xã cách nhau gần 2 cây số nên chẳng ai sẵn hương để thắp cho cụ. Chiều về chỉ thấy có thêm cái chiếu cũ đắp sơ sài. Mấy làng xã chung quanh đã được thông báo nhưng không có người đến nhận. Cụ ra đi không tên, không tuổi, không con cháu họ hàng thân quen. Đến quê quán cũng không có nốt. Đối với Cụ,  một vụ mùa giáp hạt thất bát quá dài, Cụ không chờ được một bữa no bằng gạo, ngô hoặc khoai sắn!...
    Dân sở tại đã chôn cất cụ bằng manh chiếu mỏng thừa đầu thừa đuôi, đào huyệt bằng cuốc, hố nông choèn choẹt, cùng với nấm mộ lè tè bên lề đường. Mấy thẻ hương đã được thắp lên của những người đi bán cá từ sáng sớm đã tan buổi chợ vì người ta kháo nhau đã chôn cất cho cụ xong xuôi.
    Từ đó trở đi , cứ mỗi lần dân miền biển đi chợ sớm bán cá qua đây, mỗi người đều mang theo một cục đất, góp phần đắp mộ và thắp hương cho Cụ. Cầu mong Cụ bình yên, đi về Tiên giới và phù hộ cho họ buôn may, bán đắt. Chiều về lại có thêm hương và hoa quả, cảm tạ Cụ. Người ta thành tâm thờ phụng Cụ như một vị thần. Và cứ thế mỗi năm mộ Cụ ngày một cao to, hương khói nghi ngút. Từ đó mộ Cụ như một địa danh, cứ nói đến “Mả Ông Cố” là người trong vùng biết ở vị trí nào rồi.
    Phải nói là những người buôn bán hoặc làm ăn mang tính thị trường, dù tiền vốn ít ỏi, họ đều có một nét văn hóa tâm linh riêng là tôn thờ thần linh và luôn nghĩ mình làm ăn phát đạt, ăn nên làm ra đều có phần phù hộ, độ trì của các đấng bề trên nên việc thờ tự của họ rất cẩn thận và chu đáo.

Trong một lần đi câu cáy ở một bãi ven sông Bùng, cha tôi kể câu chuyện về nạn đói 1945 ở quê tôi, làm tôi nhớ mãi:  Khoảng tháng 2 năm Ất Dậu (1945) người ăn xin đi trên đường QL-1 này nhiều lắm. Toàn người Nam Định, Thái Bình vào. Tại quãng này có 2 mẹ con đói lả ngồi bên vệ đường. Da bọc xương, đầu tóc quần áo rũ rượi. Đứa trẻ đầu to, chân tay teo tóp, mắt trắng dã, đầu ỏng, đít beo, cũng đã đói lả, chỉ còn thoi thóp thở. Người mẹ nôn ra toàn lá cỏ…Mặc dù bên cạnh có một củ khoai luộc, chắc là khách đi đường vừa cho nhưng mẹ con bà ấy đã mê man không còn biết gì nữa. Chiều hôm đó cả hai mẹ con đều chết bên vệ đường!...
Những người chức trách địa phương vùi mẹ con bà ấy ngay tại đây với mấy nhát đất gọi là mộ. Vô danh, không quê quán. Về sau có mấy trường hợp nữa, người ta dùng xe thô sơ gom lại và chôn chung một hố…
Bất ngờ tôi thấy nghẹn giọng vì thương người ta quá. Cùng là dân mình cả mà cũng chẳng còn gì để chia sẻ trong trường hợp cùng quẫn, đói khát đến chết như thế này…
Nghĩ đến cuộc sống dân mình ngày ấy với hôm nay thật một trời một vực. Ai bảo không nhờ ơn cách mạng đó chỉ là số rất ít. Những người phủ nhận công ơn cách mạng họ đã cố tình nhắm mắt trước lịch sử, cố tình thù hận, trái với số đông người Việt mà thôi…


NQH 
Hà Nội ngày  15 tháng 9 năm 2017

Bão số 10

Quê ta bão sắp vào rồi
Bao người day dứt đứng ngồi không yên
Một vùng bão tố triền miên
Một vùng hạn hán ghé liền sau lưng...

Thương quê vất vả quá chừng
Lúa chưa kịp gặt, lạc vừng chưa thu
Cái nghèo bám đuổi lu bù
Miếng cơm không trọn cũng từ bão dông...

Trận này bão lại thử lòng
Quê hương đã trải sống cùng thiên tai
Bảo nhau chống bão số 10
Chằng neo nhà cửa - lúa thời gặt nhanh
Giữ cho cuộc sống yên lành
Miền quê Xứ Nghệ trở thành gương chung...

Không có văn bản thay thế tự động nào.



Chăm vợ ốm

Tôi trở trời,
Bà lo cho tôi
Đủ thứ
Bát cháo hành
Mang tên Thị Nở
Canh hạt sen với thịt nạc ninh nhừ
Bồ câu hầm thuốc bắc
Bà bắt tôi ăn hết
Rồi thuốc, rồi thang
Gói này gói khác
Chỉ mấy bữa tôi khỏe liền...

Mấy hôm nay bà mệt
Thân gầy quặn thắt tình thương
Tôi biết làm sao cho bà được khỏe?
Đi lại bình thường
Miệng vui luôn kể
Chuyện người, chuyện chợ hôm nay...

Tôi mua bát cháo hoa có thịt về đây
Mấy quả trứng ấp non - Ngải cứu
Bánh dò, bánh chưng
Trứng gà ngoài chợ
Bởi vì tôi vụng nấu nhất nhà!
Xoong nhỏ, vung to tôi kiếm chẳng ra
Lọ muối, củ hành
Bà để đâu tôi không tìm thấy?
Tôi bật mãi mà bếp không chịu cháy
Nên tôi đành ra chợ
Mua mấy thứ chăm bà...

Thôi đừng trách cứ gần xa
Để tôi vụng dại
Tại bà ... đó nghe...

Kết quả hình ảnh cho chăm vợ ốm
Ảnh minh họa từ internet


lăng mộ đá toyota thanh hóa