( Hồi ký của Nguyễn Quang Huệ )
Đó là câu chuyện những
ngày chúng tôi được cử sang Cộng hòa Iraq để tham gia lao động trả nợ cho nước
bạn ( 1988 – 1990 ).
Tôi ở cùng phòng với hai
kĩ sư xây dựng, Nguyễn Văn Tuấn và ông Nguyễn Văn Phát, cùng sang Iraq với
chức danh Đốc công. Trong phòng còn có kiến trúc sư Phạm Vũ Mỹ sang đây với
chức danh họa viên.
Ông Tuấn, ông Phát cùng ở Liên hiệp Tấm lớn ở Xuân Hòa nên làm bạn với nhau. Tôi, ông Mỹ đều là dân Thiết kế nên trong
sinh hoạt, suy nghĩ có chiều tâm đầu ý hợp. Vì thế chúng
tôi chia thành hai bếp, tự bảo ban nhau nấu nướng vì hợp gu hợp tính. Hàng ngày tôi
nấu cơm buổi chiều, ông Mỹ nấu cơm buổi sáng. Thực phẩm chủ yếu là gà về hưu
quá lứa, đã đẻ hết trứng, do anh em cấp dưỡng của ta buôn từ chợ về. Rau cỏ,
trứng hành, sữa đường, mua ở căng tin.
Bếp nấu dùng dây may so
của Nga, người nào cũng mang theo vài ba cái. Đế bếp bằng đất nung chuyên dùng với dây may so. Nồi niêu
mua sắm tại thị trấn Sê kát, một
huyện lỵ, cách khu ở mười cây số. Ăn không dùng đũa mà dùng thìa. Cuộc sống tạm bợ lâu thành quen. Tháng
đầu mới sang ăn tập thể do người
Xu Đăng nấu không hợp khẩu vị nên hầu hết tự tổ chức nấu ăn.
Mỗi tháng
nhà nước Iraq cấp cho 24 Đina tiền
ăn kể từ khi nhập cảnh, nên ăn uống đường sữa
thoải mái không bao giờ thiếu.
Qua một năm lao động vất vả, mỗi người dành dụm đổi được mấy trăm Đô. Công ty
xuất khẩu lao động Vinaconex lại cho đăng ký mua xe máy cũ của Nhật Bản. Tôi đăng ký mua một chiếc
với giá 480 Đô la. Ông Tuấn mua
một chiếc 320 Đô la. Ông Mỹ mua một xe mới với giá 1.000 Đô la.
Riêng ông Phát không mua vì con gái ông là cô
Thanh Hương, biên tập viên Đài truyền hình Việt Nam gửi thư sang khuyên bố
giữ gìn sức khỏe, để tiền bồi dưỡng
bản thân chờ ngày về. Đừng lo gì cho
mẹ con con ở nhà.
Sau khi Công ty
Vinaconex chiếu video cảnh các bà vợ ở nhà nhận xe, mặt mày các phu nhân rạng
rỡ, vui vẻ dắt xe ra khỏi congtener, các ông chồng vẫn chưa biết tường tận
chiếc xe của mình.
Vợ ông Tuấn viết thư sang nói nặng lời rằng:
-Anh có mua xe thì mua trong nhà, đừng mua xe ngoài bãi rác. Nhục
lắm vì vừa xấu, vừa cũ nát, lại hôi hám, toàn mùi nước mắm. Vành bánh, phụ tùng
đều han rỉ. Sao không mua cái nhiều tiền hơn như người ta?
Ông Tuấn bực
mình vì Vinaconex mua cho ông cái xe hủi lậu. Khốn nỗi ông ấy chỉ đặt loại 320
Đô la vì trước đó đã mua quần nhung, áo nỉ, khăn lông cho vợ và mấy đứa con nên
chỉ mua được xe cũ đời 78, loại sừng nghé.
Vợ ông Mỹ gửi thư sang
báo tin:
-
Anh ơi, nhà ta đã mua được xe Hon Đa đời 82, màu vàng, đèn vuông, nhưng
phải vay của bà cô 300 Đô mới đủ.
Ông Mỹ cứ băn khoăn không
hiểu màu vàng như thế nào? Có đẹp không? Ông Tuấn
đang sẵn bực mình về bức thư
của vợ bèn đáp một câu không ai ngờ tới:
-
Màu vàng là màu c.ứ.t, có gì phải hỏi!…
Cả mấy anh em trố mắt
thất vọng… sau câu trả lời không mấy lịch sự làm ai cũng thấy nặng mùi, lặng
người vì khó chấp nhận.
Một lúc sau, ông Mỹ hỏi
tôi:
-
Xe cũ, đời 81, năm mươi phân khối, màu
xu hào, đồng hồ: “Kim
vàng giọt lệ”.
Ông Mỹ kêu to:
-
Ông Huệ trúng độc đắc rồi. Kim vàng giọt lệ kia mà, bao người
mơ ước đấy. Loại này hiện nay ở Hà Nội
được giá lắm. Dắt xe ra khỏi congtener là có người hỏi mua ngay. Nhiều người săn lùng. Bây giờ đem bán ngang giá với
xe tôi đấy. Ông Huệ sướng thật, tự
nhiên lộc vào nhà, được lãi mấy trăm Đô.
-
Tôi chẳng hiểu về xe lắm vì chưa bao giờ có, nên chưa quan tâm.
Một số anh em thuộc Vụ Kỹ thuật,
Văn phòng Bộ cùng đi một
chuyến bay, không đăng ký mua với lý
do không biết đi xe máy. Tới khi về
nước không có tiền mua xăng dầu, vả lại khi đi đường, lớ ngớ đâm vào người ta thì bán xe
cũng không đền nổi. Thôi chả dại!
Tôi nói với các anh ấy:
Cứ mua đi. Có xe sẽ biết đi xe, có xe sẽ có tiền mua xăng. Trái lại nếu
mua không đi thì bán, cũng lãi được vài trăm
Đô đấy. Nhưng các anh ấy bảo
muộn rồi. Chỉ còn mấy người chắc Công ty Vinaconex chẳng thèm mua hộ…
Sau khi vợ báo tin
phải vay bà cô 300 Đô la, ông Mỹ nghĩ ngay đến trách nhiệm của mình là làm gì
để lúc về có tiền trả nợ!…
Ông là kiến trúc sư,
lại có tài vẽ truyền thần. Hàng
ngày cứ hết giờ làm việc buổi chiều, về đến
nhà, ông ấy lại ngồi vào bàn ngắm nghía hết ảnh
này đến ảnh khác. Nó như thói quen nghề nghiệp.
Lâu nay ông vẫn vẽ nhưng
bây giờ trở đi ông sẽ phải cố gắng hơn nữa, may chăng mới thoát nợ nần. Ba trăm Đô lớn lắm chứ.
Khách hàng của ông Mỹ
là những người lao động Xu Đăng, Cairô, Bangladesh. Họ rất thích những bức ảnh ông vẽ. Tuy nhiên
không phải bức ảnh nào khách hàng cũng hài lòng. Có
ảnh vẽ đi vẽ lại mất cả tuần mà khách chê không giống, không muốn lấy ảnh, ông buồn bực vô cùng. Mỗi ảnh
ông lấy hai Đina nhưng khách không nhận hàng
là mất toi thời gian lao động cật lực cả tuần. Kiếm được đồng tiền đâu dễ. Ông vẫn
ca cẩm như vậy.
Một hôm, sau bữa cơm
chiều, ông Mỹ tâm sự thật lòng:
- Ông Huệ thế mà sướng thật, hết giờ làm việc, cứ vi vu, vui chơi thoải mái, chẳng lo nghĩ gì. Còn tôi, cày cuốc cả đêm lẫn
ngày mà chẳng đâu vào đâu.
Ông Mỹ lại than thở rằng, mình làm tại văn
phòng công trường cùng với Na Sơ mà chưa bao
giờ hắn thưởng cho mình một giờ thêm giờ nào.
Trái lại thỉnh
thoảng tôi vẫn thấy hắn thưởng cho ông?
Ông có bí quyết gì không? Mình không ngờ trước mặt là một quả núi Phượng Hoàng
lớn mà mình không nhận biết. Phục tài. Phục tài…
-
Tôi trả lời: Cơ bản là hiệu quả công việc.
Ông ngồi văn phòng, máy sưởi mùa đông, máy lạnh mùa hè, có khổ như những
người ngoài công trường, cơ cực thế nào, ông đâu có biết. Ông sang đây
với chức danh họa viên,
Na Sơ chỉ ông vẽ cái
gì thì vẽ cái đó, vẽ xong ngồi chơi, thế là hơn tôi rồi. Ông chỉ vất vả khi đã về nhà với những bức ảnh truyền
thần, từ năm giờ chiều đến mười một giờ đêm mới nghỉ.
Quả thật, muốn truyền
thần một bức ảnh phải tập trung trí não cao độ. Đưa được khuôn hình từ tấm ảnh
bé tý ra khổ giấy A4 rất vất vả. Ăn không ngon, ngủ không yên với chúng.
Vì vậy ông gầy sọp, mặt
hốc hác, chứ đâu béo tốt như người khác. Chiếc kính lúp phóng đại lúc nào cũng nằm ngay trước mặt, giúp cho đôi
mắt đỡ mỏi mệt khi phải làm việc liên tục. Tôi thật sự ái ngại cho ông ấy.
Một điều đặc biệt nữa mà
ông Mỹ và nhiều người không biết:
Tôi làm đốc công chỉ một tháng, sau đó Na Sơ, Chỉ huy trưởng công
trường Cụm II bảo tôi giao lại cho người khác. Tôi không biết việc mới là gì. Trong những lúc Na
Sơ ra hiện trường trao đổi và gửi cho tôi những bản vẽ nhỏ để giao nhiệm vụ cho từng tổ, tôi đã nắm được vị trí ở đâu, trục nào, tim nào, cao độ
bao nhiêu đã ghi trong bản vẽ.
Một tuần sau tôi đã vẽ xong mặt bằng
tổ chức thi công cho từng hạng mục,
Na Sơ hỏi bản này ông lấy ở đâu? Tôi trả lời: - Lấy ngay những bản vẽ
nhỏ ông đưa cho tôi. Tôi chỉ tổng hợp lại. Ông ta ngạc nhiên lắm. Sau đó, anh Phạm
Đức Hoàn là phiên dịch tiếng Anh nói với Na Sơ rằng: Ở Việt Nam, ông ấy là Trưởng phòng Kỹ thuật và Giám định của một Tổng B, trên công trường
gần một vạn người thi công nhà máy nhiệt điện
do Liên Xô viện trợ. Ông Huệ có nhiều
kinh nghiệm tổ chức thi công những công trình lớn ở Việt Nam. Na Sơ phục tài, từ khâm phục đến
tin tưởng giao việc một cách trân trọng.
Mấy hôm sau, Na Sơ gọi tôi vào văn
phòng công trường làm việc. Sau khi sai người phục
vụ Xu Đăng pha nước chè đen và đường mời tôi uống, ông ấy nói từng
lời rành mạch:
-
Tôi được biết ông là kỹ sư thiết kế công trình, đã tham gia
thi công nhiều công trình lớn ở Việt Nam,
ông hãy giúp lập bản vẽ mặt bằng tổ chức thi công cho phần còn lại của công trình 250 và 310. Máy móc thi công tại công
trường gồm những loại gì, ông biết cả rồi, có thắc mắc gì, ông trao đổi với tôi. Sau đó ông ấy giao cả tập
bản vẽ để tôi nghiên cứú
Sau giờ làm việc mỗi ngày, tôi
lại mang hồ sơ về nhà xem xét, dự
tính. Sáng hôm sau lại gặp Na Sơ trình bày dự kiến và phác thảo cho ông ta nghe. Trân
trọng, tin tưởng và cảm phục mà tôi cảm nhận được trên nét mặt khôi ngô,
thanh tú của một người kỹ sư da trắng.
Nhà ông ấy ở thành phố Mô Sun cách công
trường 180 km. Ngày nào cũng sáng đi chiều
về. Đi lại bằng chiếc xe TOYOTA bốn
chỗ mới tinh. Gia đình tư bản nhưng
chi tiêu của họ rất đúng mực, không ăn
chơi xa hoa như những đại gia ở xứ mình.
Sau này tôi mới ngẫm ra tại sao Na Sơ giàu có mà ít quan tâm thưởng thêm giờ cho những
người khác, trong đó có kiến trúc sư Phạm Vũ Mỹ.
Tôi
đưa tập bản vẽ công trình về nhà đến lần thứ tư, ra đến cổng, quân cảnh ách lại
hỏi: Tài liệu này ông lấy ở đâu? Tôi trả lời: do ông Na Sơ giao
cho tôi đem về lập bản vẽ biện pháp thi công cho công trình. Quân cảnh nói: chúng
tôi giữ lại tài liệu này. Không còn
cách nào khác, tôi giao luôn cho họ.
Đây là tập bản vẽ thiết kế của một cụm
công trình quân sự quan trọng. Tôi rất sợ đến sự liên lụy và an toàn của bản thân mình. Tối hôm đó tôi không thể nào ngon giấc.
Sáng hôm sau gặp Na Sơ, ông ta nói:
Quân cảnh đã trao lại tài liệu cho văn phòng công trường. Từ hôm nay ông không
được mang ra ngoài. Ông cứ vào đây nghiên cứu, không phải làm đêm ở nhà.
Tôi thật sự đỡ lo lắng và từ hôm đó
hạn chế việc tiếp xúc với những tài liệu ấy,
chỉ trao đổi trực tiếp khi cùng ở ngoài công trường với Na Sơ mà thôi.
Một điều may mắn tại Cụm II, qua hai năm thi công chưa xảy ra một vụ
tai nạn lao động nghiêm trọng nào, mặc dù nhiều vị trí cao hàng chục mét, cheo
leo, rất dễ tuột chân. Không có vụ rơi gỗ, rơi sắt thép hoặc các vật liệu nào
khác gây thương tích, cũng chưa bao giờ bị sập hoặc đổ dàn giáo.
Trong xây dựng không ai nói trước được điều gì cả. Nhờ đội ngũ công nhân lành
nghề, nhờ đội ngũ đốc công sâu sát
và cũng nhờ biện pháp thi công hợp lý
nên đã bình yên mọi nhẽ.
Hai năm trời an toàn tuyệt đối cho mọi
người là điều hạnh phúc vô cùng lớn đối với những kỹ sư xây dựng như chúng tôi…
0 nhận xét :
Đăng nhận xét